Logo Bài Thuốc Quý

Bệnh ung thư bàng quang

04/05/2015 10:57 PM
Ung thư bàng quang hay bướu bàng quang đứng hàng thứ 4 trong các loại ung thư ở nam giới, sau ung thư phổi, tiền liệt tuyến, đại trực tràng. Tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh bướu bàng quang, các triệu chứng, cách phòng ngừa, thuốc điều trị bướu bàng quang (ung thư bàng quang).

Ung thư bàng quang là gì?

Ung thư bàng quang (bướu bàng quang) đứng hàng thứ 4 trong các loại ung thư ở nam giới, sau ung thư phổi, tiền liệt tuyến, đại trực tràng.

90% trường hợp K bàng quang có dạng carcinoma tế bào chuyển tiếp.

Ung thư bàng quang, bướu bàng quang
Ung thư bàng quang

Đối tượng nguy cơ: Nam trên 50 tuổi và có thói quen nghiện hút thuốc lá nhiều, lâu ngày hoặc có thời gian tiếp xúc lâu dài với hóa chất nhuộm anilin, các hợp chất amin thơm, các hóa chất trong công nghiệp chế tạo cao su... với thời gian tiếp xúc hoá chất trên 10 năm

Phân loại ung thư bang quang:

Độ biệt hoá (Grade) và độ xâm lấn (Stage)

- Grade 1: Các tế bào biệt hóa tốt, ít phân bào, ít di căn, độ hoá ác thấp. Ðại thể thường là những bướu có cuống dài, chân hẹp.

- Grade 2: Tế bào biệt hóa vừa, mức độ ác tính trung bình. Ðại thể bướu có cuống ngắn và nông, có khi các nhánh dính vào nhau và bướu có hình như bông cải.

- Grade 3: Tế bào biệt hóa kém, mức độ ác tính cao, sớm ăn sâu vào lớp cơ bàng quang và sớm di căn hạch, tiên lượng xấu. Ðại thể thường bướu không có cuống mà thâm nhiễm rộng ở lớp cơ bàng quang.

+ Stage bướu nông: Chân bướu còn khu trú ở niêm mạc bàng quang

+ Stage bướu sâu: Chân bướu đã xâm lấn đến lớp cơ bàng quang hoặc sâu hơn

I. Nguyên nhân gây bệnh ung thư bàng quang

- Mắc các bệnh phụ khoa hay viên nhiễm đường tiết liệu

- Bị táo bón lâu ngày

- Tiểu tiện quá ít (ít hơn 5 lần mỗi ngày)

- Sinh hoạt tình dục không an toàn

- Thường xuyên ngồi lâu

- Thiếu ngủ, chế độ ăn uống không hợp lý, thường xuyên mệt mỏi và căng thẳng

- Không giữ ấm cơ thể

- Ăn nhiều đồ rán và các loại thức ăn có vị cay

- Mặc quần áo quá chật

II. Các triệu chứng của bệnh ung thư bàng quang

Triệu chứng lâm sàng:

- 80% phát hiện muộn

- Đái máu đại thể, tự khỏi dù có hay không có điều trị

- Đái gắt buốt do bướu đã phát triển lớn nên có những vùng bướu bị hoại tử, làm cho có hiện tượng bội nhiễm, trong nước tiểu sẽ có bạch cầu và vi trùng

- Thận ứ nước nếu bướu ăn đến lỗ niệu quản

- Hội chứng thiếu máu do đái máu kéo dài

- Thăm trực tràng: Có thể thấy đáy bàng quang bị thâm nhiễm cứng trong thể bướu thâm nhiễm

Cận lâm sàng:

- Siêu âm ngã bụng hoặc trực tràng/ âm đạo

- UIV: Phát hiện ra bướu bằng hình ảnh khuyết ở bàng quang.Ngoài ra còn cho thông tin về giải phẫu chức năng của đường tiểu trên.

Khi bướu xâm lấn miệng niệu quản thì có thể thấy hình ảnh giãn nở đài bể thận và niệu quản.

Nên chụp phim ngoài lúc tiểu máu vì có thể nhầm lẫn với máu cục trong bàng quang

- Soi bàng quang và sinh thiết: Xác định kích thước bướu, vị trí bướu, số lượng bướu, hình thể đặc biệt của bướu nhưcó cuống hay không, cuống to hay nhỏ. Ngoài ra khảo sát cả bệnh lý phối hợp ở bàng quang nhưvị trí túi ngách, bướu tiền liệt tuyến và tình trạng giãn nở của bàng quang để có ý niệm về sự thâm nhiễm của bướu. Sinh thiết ở chân của bướu

- CTscan vùng chậu: Phát hiện trường hợp bướu thâm nhiễm rõ, có thể dùng để truy tìm hạch và tìm các tổn thương do di căn trên các cơquan khác

III. Chuẩn đoán và xác định bệnh ung thư bàng quang

Tiểu máu, nếu tự nhiên đi tiểu ra máu thì phải đi khám bác sĩ ngay vì rất có thể bạn bị một ung thư bàng quang. Tuy nhiên, tiểu máu cũng có thể do ung thư thận, hay chỉ là do viêm bàng quang, lao thận, lao bàng quang.

Bệnh nhân sẽ được yêu cầu xét nghiệm nước tiểu để xác định chắc chắn là có tiểu máu (có hồng huyết cầu trong nước tiểu), vì nước tiểu có thể có màu đỏ mà không phải do tiểu máu. Ngoài ra, nước tiểu còn được phân tích xem có tế bào ung thư không.

Siêu âm là một xét nghiệm đơn giản, không gây hại và giúp chẩn đoán sớm bướu bàng quang. Bệnh nhân cần phải uống nước nhiều, nhịn đi tiểu để bàng quang căng to, bác sĩ làm siêu âm sẽ dễ khảo sát bàng quang xem có bướu hay không.

Chụp X quang đường niệu(UIV) là một xét nghiệm cao cấp hơn. Để phân trong ruột không che lấp thận, bàng quang, bệnh nhân cần được súc ruột trước khi chụp, hay được uống thuốc xổ một ngày trước. Ngoài ra, bệnh nhân còn cần nhịn uống nước vài giờ trước khi chụp để nước tiểu cô đặc lại, dễ nhìn thấy thận hơn. Bệnh nhân sẽ được bơm thuốc cản quang vào mạch máu, thuốc này vào máu rồi vào thận và bàng quang, nó giúp thận và bàng quang nổi bật lên trên phim. Thuốc cản quang có thể gây dị ứng chết người, nên nếu bệnh nhân có bị bệnh dị ứng (bị hen suyễn, bị chàm, bị dị ứng kháng sinh.) thì cần phải khai rõ với bác sĩ để bác sĩ định liệu xem có nên tiếp tục chụp phim không, và nếu vẫn tiến hành chụp phim được thì cần chuẩn bị các thuốc chống dị ứng kỹ lưỡng. Ngoài ra, chụp X quang sẽ không được làm cho phụ nữ mang thai. Thông thường, 5 phút sau khi bơm thuốc vào mạch máu, bác sĩ sẽ chụp một phim, 10 phút sau một phim nữa, và 15 phút sau thêm một phim nữa; tổng cộng có 3 phim. Nhờ các phim này bác sĩ biết bệnh nhân có bướu bàng quang hay không, và mức độ ảnh hưởng của bướu tới thận.

Soi bàng quang, là một xét nghiệm chuyên khoa do bác sĩ chuyên khoa Niệu thực hiện. Máy soi thường là một ống bằng kim loại, được bôi thuốc gây tê và làm trơn máy, rồi luồn qua niệu đạo vào bàng quang. Nhờ có đèn trong máy, soi sáng bàng quang, nên bác sĩ có thể nhìn tận mắt mọi ngóc nghách của bàng quang và phát hiện bướu, cũng như đo lường kích thước bướu làm cơ sở cho phương pháp điều trị sau này. Thông thường khi thấy bướu hay nhìn thấy chỗ nào nghi ngờ có bướu, bác sĩ sẽ luồn một kẹp nhỏ vào trong máy để bấm một mảnh thịt nhỏ như đầu tăm (gọi là sinh thiết). Mảnh thịt được gởi đi phòng xét nghiệm, để xem có phải là bướu không, và nếu chẳng may là bướu thì mức độ "ác" của bướu là như thế nào.

Sau khi soi về, bệnh nhân thường tiểu rát và tiểu ra máu trong vài ngày cho dù có bướu hay không có bướu, vì máy soi cọ xát làm trầy nhẹ đường tiểu.

Gần đây, phương pháp chụp X quang một loạt nhiều tấm (Chụp cắt lớp = C.T.Scan) đã không những giúp chẩn đoán ra các bướu bàng quang mà còn giúp biết mức độ ăn lan của bướu ra mô xung quanh và tới các hạch trong bụng, tới gan. Tuy nhiên, xét nghiệm này mắc tiền (trên 1. 000. 000 đồng) nên ít phổ biến, chỉ có một vài bệnh viện lớn là có máy.

IV. Cách điều trị bệnh ung thư bàng quang

Điều quan trọng trong điều trị bướu bàng quang là bệnh nhân phải chịu khó "theo" bác sĩ một thời gian dài, 5-10 năm cho đến cả đời, bởi vì bướu bàng quang rất dễ tái phát. Nhiều khi ban đầu bệnh nhân chỉ bị một bướu nhỏ, được cắt hết, bệnh nhân an tâm ra về không quay lại tái khám, để rồi sau 1-2 năm quay lại với một bướu tái phát to, thậm chí còn lan xa. Lịch trình tái khám cụ thể sẽ được trình bày ở các phần bên dưới.

Phẫu thuật

Cắt đốt nội soi

Cắt đốt nội soi thực chất cũng là một cuộc mổ, nhưng là cuộc mổ nhỏ với phương tiện hiện đại. Bệnh nhân được gây mê hay gây tê tủy sống, sau đó bác sĩ phẫu thuật sẽ luồn một cái máy cắt đốt nội soi qua niệu đạo vào bàng quang. Máy này bằng kim loại, giống máy dùng để soi bàng quang nhưng hơi to hơn. Dao cắt là một dây kim loại bền, dẫn điện tốt, được gắn với một tay cầm. Dòng điện qua dao giúp cắt mô và cầm máu, nhưng không lan truyền đi xa và không gây giật. Cắt đốt nội soi có kết quả rất tốt đối với những bướu nhỏ, còn nông, chưa ăn sâu vào thành bàng quang. Nếu bị tái phát bệnh nhân có thể lại được cắt đốt nội soi tiếp.

Cắt đốt nội soi chỉ lấy hết bướu nhưng không dự phòng được việc bướu tái phát, nên bệnh nhân sẽ được đề nghị hóa trị tại chỗ: Bơm thuốc vào bàng quang (xem bên dưới).

Sau khi chấm dứt hóa trị bơm thuốc vào bàng quang, bệnh nhân sẽ được tái khám mỗi 3 tháng / lần trong vòng 2 năm đầu tiên. Mỗi lần tái khám bác sĩ sẽ yêu cầu bệnh nhân thử nước tiểu để tìm hồng cầu và tìm tế bào ung thư, và nội soi kiểm tra bàng quang. Thường bướu hay tái phát trong thời gian 2 năm này. Nếu không có tái phát trong 2 năm, lịch tái khám sẽ thay đổi, bệnh nhân được tái khám mỗi 6 tháng / lần trong 2 năm kế tiếp. Nếu vẫn không có tái phát thì từ đó về sau bệnh nhân chỉ phải tái khám mỗi năm một lần.

Cắt bỏ bướu bàng quang

Đối với những bệnh viện không có máy cắt đốt nội soi thì dù bướu nhỏ cũng phải mổ ngã bụng, mở bàng quang ra để cắt bỏ bướu. Sau mổ bệnh nhân cần được theo dõi định kỳ như đã bàn ở trên.

Cắt bỏ bàng quang bán phần

Một phần bàng quang được cắt bỏ, kèm theo với một đoạn niệu quản cắm vào bàng quang. Phẫu thuật này dành cho những bướu tuy nhỏ nhưng xâm lấn một miệng niệu quản, làm thận bên đó bị ứ nước, và còn có thể do bệnh nhân yếu nên không thể cắt hết bàng quang được. Khả năng tái phát ung thư cao, nhưng dù sao, sau mổ bệnh nhân vẫn còn đi tiểu bình thường được. Bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ sau mổ.

Cắt bỏ bàng quang hoàn toàn

Khi bướu đã ăn sâu vào thành bàng quang, biện pháp trị tốt nhất là cắt bỏ toàn bộ bàng quang, nên không còn chỗ cho bướu tái phát nữa. Phẫu thuật thuộc loại "nặng", nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân. Cắt bỏ bàng quang cũng có khi được thực hiện trên những bệnh nhân mà ung thư đã tiến triển xa, nhằm lấy bớt mô bướu, điều trị chảy máu dai dẳng...

Sau khi cắt hết bàng quang, nếu bướu đã ảnh hưởng nhiều lên thận và nếu bướu xâm lấn ra khỏi bàng quang, dính vào các mô xung quang bàng quang, thì có lẽ tốt nhất là đưa 2 miệng niệu quản đã cắt cụt ra nối với da. Nước tiểu sẽ chảy liên tục qua 2 lỗ niệu quản này, nên bệnh nhân cần đeo túi hứng dán vào da, hay đeo 2 ống thông nhỏ mà một đầu bên trong luồn qua lỗ niệu quản lên thận và một đầu ngoài nối với 1 bao hứng nước tiểu. Ống thông sẽ được thay mỗi tuần / lần.

Trường hợp bướu chưa xâm lấn ra vùng xung quanh bàng quang, và nếu bệnh nhân khỏe mạnh, bác sĩ có thể dùng chính ruột non của bệnh nhân để tạo ra một bàng quang mới. Đoạn ruột này dài khoảng 60 cm, sẽ không gây ảnh hưởng gì đặc biệt lên trên tổng chiều dài của ruột non (khoảng 6-8 m). Bàng quang mới này có thể có một lỗ mở ra thành bụng, thông qua một van có kiểm soát (van cũng bằng một đoạn ngắn ruột non). Nhờ đó bệnh nhân không phải đeo túi gì cả vì làm nước tiểu không trào ra van được, rồi cứ mỗi 3-4 tiếng, bệnh nhân tự luồn một ống thông nhỏ, sạch vào bàng quang mới này để rút hết nước tiểu ra. Điểm bất tiện là dịch ruột non bài tiết có thể gây trở ngại, hay tạo sỏi, nên mỗi ngày bệnh nhân phải dùng ống chích, bơm rửa nước sạch qua ống thông vào bàng quang để hút hết dịch nhầy của ruột ra. Về lâu về dài, dịch nhầy sẽ giảm tiết dần, nên chỉ cần bơm rửa mỗi tuần một lần.

Lý tưởng nhất là túi bàng quang bằng ruột được nối vào mỏm niệu đạo, do đó bệnh nhân sau một thời gian tập luyện, có thể đi tiểu gần như người bình thường. Bệnh nhân không phải mang túi gì bên ngoài cả, cũng như không có lỗ nào trổ ra thành bụng. Loại phẫu thuật này chỉ có thể thực hiện nếu bệnh nhân có thể trạng khá tốt, và bướu chưa xâm lấn tới cổ bàng quang, bướu không có quá nhiều ổ vì khả năng niệu đạo cũng bị bướu "ăn" mất rồi. Ngoài ra, không thể thực hiện phẫu thuật này cho phụ nữ được vì niệu đạo nữ đã bị lấy đi cùng với bàng quang.

Hóa trị tại chỗ

Đây là phương pháp bơm thuốc vào bàng quang. Có một vài thứ thuốc có thể dùng bơm vào bàng quang để trị dứt tiệt các tế bào bướu còn sót sau cắt đốt nội soi và dự phòng tái phát ung thư: thiotepa, mitomycin-C, adriamycin hay BCG. Cách sử dụng các thuốc này thay đổi tùy từng phác đồ của mỗi bệnh viện.

Thiotepa, ngày nay ít ai còn dùng để bơm vào bàng quang nữa do thuốc ít hiệu quả mà lại dễ ngấm vào máu gây chứng giảm tiểu cầu hay ức chế tủy xương.

Mitomycin-C, thuốc dùng có hiệu quả tốt, không gây tác dụng phụ toàn thân vì thuốc không bị hấp thụ vào máu, nhưng lại hay gây ra kích thích bàng quang, viêm bàng quang do thuốc. Liều thông thường là tiêm vào bàng quang mỗi tuần/ lần, mỗi lần 40 mg, trong 6 tuần.

Adrimycin, thuốc có vẻ dùng tốt do có hiệu quả và ít gây tác dụng phụ hơn các thuốc trên. Liều dùng thay đổi tùy bệnh viện, có thể là 80 mg cho mỗi lần bơm, mỗi tuần / lần trong 8 tuần.

BCG, (Bacillus Calmette-Guerin), có lẽ là thứ hữu hiệu nhất. Đây không phải là một loại chất hóa học, mà là vi khuẩn Mycobacterium bovis đã được làm yếu đi. BCG có tác dụng kích thích hệ miễn dịch tại chỗ làm tế bào bướu không phát triển được. Có nhiều dòng BCG được dùng, nhưng hay dùng nhất là dòng Tice và Connaught. Bất lợi của BCG là gây ra viêm bàng quang và có thể gây tác dụng phụ toàn thân nguy hiểm. Do đó, không được dùng BCG nếu bệnh nhân còn bị tiểu máu hay việc thông tiểu gây chấn thương niệu đạo. Cách dùng cũng thay đổi tùy bệnh viện, có thể dùng 40 mg (loại Tice) hay 120 mg (loại Connaught) mỗi tuần / lần trong 6 tuần.

Xạ trị

Được áp dụng cho những ung thư bàng quang xâm lấn. Kể từ khi có sự phát triển của các phương pháp tạo hình bàng quang bằng ruột non, chỉ định điều trị bằng xạ trị trở nên thu hẹp lại, trong khi phẫu thuật cắt bỏ bàng quang tận gốc kèm theo tạo hình bàng quang được mở rộng ra.

Hóa trị toàn thân

Trong các loại thuốc trị ung thư bàng quang có tác dụng toàn thân, thì công thức M-VAC (methotrexate + vinblastine-adriamycin - cisplatin) tỏ ra có hiệu quả nhất: 40-50% có đáp ứng một phần hay hoàn toàn.

Các phương pháp điều trị khác

Còn có những phương pháp khác trên thế giới dùng trong điều trị ung thư bàng quang như phương pháp xạ - quang (photoradiation) hay dùng laser để đốt bướu. các phương pháp đó chưa xuất hiện tại Việt Nam, nằm ngoài mục đích của bài viết này nên chúng tôi không bàn tới.

Thuốc thay thế

Không có bổ sung hoặc thay thế phương pháp điều trị ung thư bàng quang đã được tìm thấy để chữa bệnh ung thư bàng quang. Nhưng các bác sĩ đang học cách để ngăn ngừa ung thư bàng quang, bao gồm một số phương pháp bổ sung và thay thế. Nếu đang lo lắng về nguy cơ ung thư bàng quang hoặc ung thư có thể tái diễn, có thể quan tâm cố gắng trị liệu bổ sung và thay thế. Nói chuyện với bác sĩ về các tùy chọn.

Vitamin. Trái cây và rau là cách an toàn nhất để có được các vitamin. Một số nghiên cứu cho thấy liều lượng lớn các vitamin nhất định, chẳng hạn như vitamin E ở dạng viên thuốc có thể giúp giảm nguy cơ ung thư bàng quang. Nhưng các nghiên cứu khác đã không tìm thấy điều này.

Học hỏi thêm là cần thiết để hiểu những gì là an toàn nhất và hiệu quả nhất. Cho đến lúc đó, tập trung vào việc ăn nhiều trái cây và rau quả giàu vitamin. Nếu đang quan tâm đến việc bổ sung vitamin, hãy hỏi bác sĩ về những gì có thể là hợp lý.

Trà xanh. Uống trà xanh có liên quan đến nhiều lợi ích sức khỏe. Nhưng liệu nó có thể làm giảm nguy cơ ung thư bàng quang là không rõ ràng. Nghiên cứu động vật đã cho thấy lời hứa, nhưng các nghiên cứu ở người đã được hỗn hợp. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy rằng những người uống trà xanh có giảm nguy cơ ung thư bàng quang, trong khi một nghiên cứu khác cho thấy uống trà xanh trong nhiều năm tăng nguy cơ ung thư bàng quang. Nghiên cứu thêm là cần thiết để hiểu được cho dù trà xanh là hữu ích hay có hại khi nói đến việc ngăn ngừa ung thư bàng quang.

V. Cách phòng tránh bệnh ung thư bàng quang

Chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý là liều thuốc tốt nhất để chống lại bệnh.

- Vệ sinh cơ thể sạch sẽ hàng ngày

- Thường xuyên vận động, tập thể dục

- Nên ăn nhiều rau xanh, hoa quả và những loại thức ăn có chất xơ

- Sinh hoạt tình dục an toàn cũng là một yếu tố quan trọng giúp giảm nguy cơ mắc bệnh.

- Không hút thuốc. Không hút thuốc lá có nghĩa là hóa chất gây ung thư trong khói không thể thu thập trong bàng quang. Nếu không hút thuốc, không bắt đầu. Nếu hút thuốc, hãy nói chuyện với bác sĩ về một kế hoạch để giúp dừng lại. Các nhóm hỗ trợ, thuốc men và các phương pháp khác có thể giúp bỏ thuốc lá.

- Hãy thận trọng với hóa chất. Nếu làm việc với hóa chất, hãy làm theo các hướng dẫn an toàn để tránh tiếp xúc.

- Uống nước suốt cả ngày. Uống nước, đặc biệt là nước làm loãng chất độc hại có thể sẽ được tập trung trong nước tiểu và đào thải nó ra khỏi bàng quang nhanh hơn.

VI. Một số loại ung thư bàng quang

Các loại tế bào ung thư bàng quang, nơi bắt đầu xác định loại ung thư. Các loại khác nhau của các tế bào trong bàng quang có thể trở thành ung thư. Loại bệnh ung thư bàng quang xác định phương pháp điều trị có thể tốt nhất. Các loại ung thư bàng quang bao gồm:

Chuyển tiếp tế bào ung thư. Ung thư tế bào chuyển tiếp xảy ra ở các tế bào lót bên trong bàng quang. Mở rộng các tế bào chuyển tiếp khi bàng quang đầy đủ và hợp đồng khi bàng quang đang trống. Những tế bào này cùng một dòng bên trong niệu quản và niệu đạo và các khối u có thể hình thành. Ung thư tế bào chuyển tiếp là loại phổ biến nhất của ung thư bàng quang.

Ung thư biểu mô tế bào vảy. Tế bào vảy xuất hiện trong bàng quang để phản ứng lại nhiễm trùng và kích thích. Theo thời gian có thể trở thành ung thư. Ung thư bàng quang tế bào vẩy là rất hiếm. Tế bào vẩy phổ biến hơn khi bị nhiễm ký sinh nhất định, một nguyên nhân phổ biến của nhiễm trùng bàng quang.

Ung thư tuyến (adenocarcinoma). Adenocarcinoma bắt đầu trong tế bào tạo nên các tuyến tiết ra chất nhầy trong bàng quang. Adenocarcinoma của bàng quang là rất hiếm.

Một số bệnh ung thư bàng quang bao gồm nhiều hơn một loại tế bào.